kinh rải tâm từ tiếng việt

Một số động từ bất quy tắc trong tiếng Anh hay dùng. Trong quá trình học tiếng Anh, luyện thi ielts khi học về phân từ hay là thì hoàn thành thì các bạn sẽ phải nhớ rất nhiều các động từ bất quy tắc (irregular verbs) để có thể chia động từ cho đúng. Ở bài này, Oxford Phan Quang sinh năm 1928, là nhà văn, nhà báo kỳ cựu, nguyên Thứ trưởng Bộ Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông). Ông bước chân vào nghề báo từ năm 20 tuổi và là cây bút quen thuộc trên báo Cứu quốc Liên khu IV.Năm 1954, ông được điều động về báo Nhân dân và làm việc tại đây trong gần 30 năm, đảm Là một người yêu chữ, ông để tâm vào việc học hỏi và sưu tầm về nguồn gốc của tiếng Việt qua 57 ngôn ngữ của miền nam Á và ĐNÁ với 275 ngàn tiếng một (từ vựng) đồng nguyên. Ông bắt tay vào công việc này từ năm 1981 đến năm 2012 thì bộ sách hoàn thành và đến Huỳnh Kim Quang: Từ việc dịch Đại Tạng Kinh tiếng Việt tới phục hưng Văn Hóa Dân Tộc. 04/12/2021 23 Mins Read. cư trú và cúng dường đầy đủ tứ sự để chuyên tâm vào việc phiên dịch kinh điển. Song, chỉ là năm 1973, các năm sau đó thì công trình không thực hiện được. I. Phải là người tinh thông phật học mới có thể dịch được kinh. Ở Nam kỳ từ có tiếng kêu Chấn hưng Phật giáo đến nay, coi ý có nhiều người để tâm về sự dịch thuật sách vở nhà Phật. Như Sư Thiện Chiếu xuất bản sách Phật học tổng yếu năm kia, và gần đây 4. Trường Việt ngữ Âu Lạc 5. Trung Tâm Việt Ngữ Keysborough 6. Trường Việt ngữ Lạc Việt (Hiệu trưởng: Cô Le Dzung Mai, michael.nguyen@optusnet.com.au) 7. Trường Việt ngữ Măng Non (Hiệu trưởng: Cô Tô Kim Long, longto@optusnet.com.au) 8. Trung tâm Việt ngữ Thế Hệ 9. Vay Online Tima. Resize You need to have the Flash Player installed and a browser with JavaScript support. Thanks! Share it with your friends! URL You disliked this video. Thanks for the feedback! Sorry, only registred users can create playlists. URL Added 2 years ago by Admin in Video Buddhology - Phật Học 197 Views Description Mời các bạn cùng nghe !Sadhu!Sadhu!SadhuLành thay! Lành thay! Lành thay!Nguồn Bản dịch Việt ngữ của thiền viện Phước SơnBiên tập Phật giáo Nguyên thủy TheravãdaWebsite Show more Commenting disabled. Virū pakkhehi me mettaṃ mettaṃ erāpathehi me chabyāputtehi me mettaṃ mettaṃ kanhāgotamakehi ca apādakehi me mettaṃ mettaṃ dipādakehi me catuppadehi me mettaṃ mettaṃ bahuppadehi me māmaṃ apādako hiṃsi māmaṃ hiṃsi dipādako māmaṃ catuppado hiṃsi māmaṃ hiṃsi bahuppado. Tếng Pali Virū pakkhehi me mettaṃ mettaṃ erāpathehi me chabyāputtehi me mettaṃ mettaṃ kanhāgotamakehi ca apādakehi me mettaṃ mettaṃ dipādakehi me catuppadehi me mettaṃ mettaṃ bahuppadehi me māmaṃ apādako hiṃsi māmaṃ hiṃsi dipādako māmaṃ catuppado hiṃsi māmaṃ hiṃsi sattā sabbe pāṇā sabbe bhūtā ca kevalā sabbe bhadrāni passantu mā kiñci Buddho appamāṇo Dhammo appamāṇo Saṅgho pamāṇa vantāni siriṃsapāni ahivicchikā satabadī uṇṇānābhī sarabū mū sikā katā me rakkhā katā me parittā paṭikkamantu haṃ namo Bhagavato namo sattannaṃ Sammāsambuddhānam'ti. Tiếng Việt Ta hãy có từ tâm Với Ví-Ru-Pắc KháTa hãy có từ tâm Với Ê-Ra-Pá-TháTa hãy có từ tâm Với Chắb-da-pút-táTa hãy có từ tâm Với Kan-Ha-Gô-Tá-Má-KáTa hãy có từ tâm Với các loài không chânTa hãy có từ tâm Với các loài hai chânTa hãy có từ tâm Với các loài bốn chânTa hãy có từ tâm Với các loài nhiều chânMong rằng loài không chânKhông có làm hại taMong rằng loài hai chânKhông có làm hại taMong rằng loài bốn chânKhông có làm hại taMong rằng loài nhiều chânKhông có làm hại taMọi chúng sanh hữu tìnhToàn thể mọi sinh vậtMong chúng thấy hiền thiện Chớ đi đến điều ácĐức Phật là vô Pháp là vô Tăng là vô lượng là các loài bò sát, các loài rắn, các con bò cạp, các con một trăm chân, các loài nhện giăng tơ, các con thằn lằn và các loài đã làm sự hộ tri, ta đã làm sự che chở, mong rằng các loài hữu tình sẽ bỏ đi. Ta đãnh lễ Đức Thế Tôn. Ta đãnh lễ bảy vị Chánh Giác. Phật-giáo-Nguyên-Thủy Theravāda trong cuốn Tâm Từ – Tỳ Khưu Hộ Pháp Theo bài kinh Tâm Từ Mettāsutta Nguyên nhân của bài kinh Tâm Từ Một thuở nọ, ức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ ức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm 500 Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng – Kính bạch chư ại ức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có được cơ hội làm phước cúng dường bốn món vật dụng, thọ trì Tam quy, ngũ giới, nghe pháp. Kính xin quý Ngài hoan hỉ nhận lời thỉnh mời của tất cả chúng con. Chư Tỳ khưu xét thấy chỗ ở, con người, vật thực… thích hợp cho việc tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, nên nhận lời thỉnh mời của họ. Họ vô cùng hoan hỉ làm 500 cốc nhỏ, giảng đường hội họp, có đầy đủ tiện nghi đối với chư Tỳ khưu, rồi làm lễ dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu trú ngụ tại khu rừng núi, ngồi hành đạo dưới những cội cây, do oai lực giới đức trong sạch của quý Ngài, làm cho nhóm chư thiên ngự trong lâu đài của mình trên cội cây không thể ở yên ổn được, nên đành dẫn thân quyến xuống ở dưới mặt đất, bị mưa gió làm cho nhóm chư thiên này sống rất vất vả khổ cực. Nhóm chư thiên ấy biết rõ chư Tỳ khưu này sẽ ở đây suốt ba tháng mùa mưa, nên họ hội họp, bàn luận với nhau rằng “Những vị Tỳ khưu này sẽ ở lại đây suốt ba tháng mùa mưa, chúng ta không một ai dám trở lại lâu đài của mình trên cây. Chúng ta làm cách nào để các vị ấy rời khỏi khu rừng núi này”. Rồi họ nhất trí với nhau rằng “Chúng ta nên hoá ra những hình ảnh đáng ghê sợ, những thứ âm thanh rùng rợn, những mùi hôi khó chịu, khiến cho các vị ấy không thể nào tiếp tục ở lại nữa”. Thật vậy, chư Tỳ khưu đang tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, ban đêm nhìn thấy những hình ảnh đáng ghê sợ, nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi những mùi tanh hôi rất khó chịu, làm cho tâm một số đông chư Tỳ khưu bị dao động, không ổn định, phát sanh tâm sợ hãi. Do đó, nên thân hình gầy ốm, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, phát sanh bệnh hoạn, làm cho tâm không thể an trú trong đề mục thiền định. Một hôm, chư Tỳ khưu Tăng hội họp, vị ại ức trưởng nhóm hỏi chư Tỳ khưu rằng – Này chư pháp đệ, trước khi vào trú ngụ trong khu rừng núi này ai cũng khoẻ mạnh, da dẻ hồng hào, gương mặt tươi sáng Nhưng bây giờ quý pháp đệ có thân hình gầy gò, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, bệnh hoạn, quý pháp đệ trú ngụ tại khu rừng núi này có điều gì không thuận lợi có phải không? Chư Tỳ khưu bạch rằng – Kính bạch Ngài ại ức, ban đêm, chúng con nhìn thấy những hình ảnh đáng ghê sợ, nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi những mùi tanh hôi rất khó chịu, làm cho tâm của chúng con bị dao động, không ổn định, phát sanh tâm sợ hãi, nên tâm của chúng con không thể an trú trong đề mục thiền định, phát sanh tình trạng như vậy, bạch Ngài. Ngài ại ức trưởng nhóm dạy rằng – Này chư pháp đệ, như vậy, chỗ ở nơi này không thích hợp cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. ức Phật cho phép Tỳ khưu an cư nhập hạ hai kỳ 1- An cư nhập hạ đầu Kể từ ngày 16 tháng 6 cho đến 15 tháng 9 ÂL. 2- An cư nhập hạ sau Kể từ ngày 16 tháng 7 cho đến 15 tháng 10 ÂL. Vậy, chúng ta còn có đủ thời gian trở về hầu đảnh lễ ức Thế Tôn, xin phép Ngài an cư nhập hạ sau ở một nơi khác. Quý pháp đệ nghĩ thế nào? Tất cả chư Tỳ khưu đều đồng tâm nhất trí nghe theo lời vị ại ức trưởng nhóm, sửa soạn lên đường trở về xứ Sāvatthi, đến hầu đảnh lễ ức Thế Tôn, Ngài truyền dạy rằng – Này chư Tỳ khưu, Như Lai đã chế định, ban hành đến tất cả chư Tỳ khưu “Trong mùa mưa, chư Tỳ khưu phải an cư nhập hạ suốt ba tháng tại một nơi, không được phép đi ở nơi khác, nếu không có nguyên nhân chính đáng”. Vậy, do nguyên nhân nào mà các con bỏ chỗ ở cũ. Chư Tỳ khưu kính bạch ức Thế Tôn rõ những tai hoạ xảy ra do nhóm chư thiên trong khu rừng núi ấy, cho nên, chư Tỳ khưu không thể tiếp tục an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa. Kính xin ức Thế Tôn cho phép an cư nhập hạ sau tại một nơi chốn khác. Quán xét thấy không có chỗ ở nào thuận lợi hơn nơi khu rừng núi cũ ấy, ức Thế Tôn khuyên dạy rằng – Này chư Tỳ khưu, chỗ ở khác thuận lợi hơn không có, các con nên trở lại chỗ ở cũ; lần này, Như Lai sẽ dạy các con bài kinh Mettāsutta [5] là paritta bảo vệ cho các con được an toàn, để các con làm đề mục thiền định và làm nền tảng tiến hành thiền tuệ, thích hợp đối với các con. ó là nguyên nhân mà ức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Mettāsutta kinh Tâm Từ này. Sau khi học tập bài kinh này xong, thực hành theo lời giáo huấn của ức Thế Tôn, chư Tỳ khưu cùng nhau trở lại khu rừng núi cũ. Khi ấy nhóm chư thiên trong khu rừng núi ấy cảm thấy mát mẻ, an lạc do năng lực tâm từ của chư Tỳ khưu, nên vô cùng hoan hỉ hộ độ chư Tỳ khưu sống yên ổn tiến hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ, chứng đắc bậc thiền sắc giới làm nền tảng, làm đối tượng để tiến hành thiền tuệ. Trong mùa an cư nhập hạ ấy, toàn thể chư Tỳ khưu đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh ạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng; đến ngày làm lễ Pavāraṇā, tất cả chư Tỳ khưu đều làm lễ Suddhipavāraṇā lễ thỉnh mời hoàn toàn thanh tịnh của chư bậc Thánh A-ra-hán gọi là Mahapavāraṇā đại lễ thỉnh mời thanh tịnh. Nội dung bài kinh Mettāsutta Kinh Tâm Từ Giai đoạn thứ nhất Pháp hành phần đầu của đề mục niệm rải tâm từ Mettāpubbabhāgapaṭipadā. Hành giả là bậc Thiện trí thông minh sáng suốt mong muốn những sự lợi ích cõi người, cõi trời và cõi Niết Bàn. ối với những hành giả trú ngụ nơi rừng núi, muốn tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, ức Phật dạy những hành giả ấy, trước khi tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, cần phải nên thực hành đầy đủ 15 pháp hành gọi là Mettāpubbabhāgapaṭipadā Pháp hành phần đầu của đề mục niệm rải tâm từ, đúng theo tinh thần cốt lõi của bài kinh Mettāsutta này. Những hành giả có trí tuệ sáng suốt mong muốn sự lợi ích cao thượng chứng ngộ Niết Bàn. ối với hành giả tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, trước tiên cần phải thực hành đầy đủ 15 pháp hành sau đó bắt đầu tiến hành đề mục niệm rải tâm từ như sau 1- Sakko là người có khả năng, nghĩa là có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tính chân thật, có sức khoẻ tốt, có sự tinh tấn không ngừng, trí tuệ có khả năng hiểu biết rõ về pháp học và pháp hành. 2- Uju là người ngay thẳng, chân thật, hành thiện pháp, không hề gian dối bằng thân, bằng khẩu. 3- Sahuju là người có tính tình trung thực, hành thiện pháp bằng ý nghĩ. 4- Suvaco là người dễ dạy, khuyên dạy thế nào, thì thực hành như thế ấy, không phải là người cứng đầu khó dạy. 5- Mudu là người nhu mì, tính hiền lành, thân hành động nhẹ nhàng mềm mỏng; khẩu nói lời êm dịu, dễ nghe; ý nghĩ những điều thiện, thương yêu, kính mến mọi người. 6- Anatimāni không ngã mạn, không tự cho mình hơn người hoặc bằng người hoặc thua người; đối với người lớn hơn mình, thì cung kính lễ phép; đối với người bằng mình, thì sống hoà nhã; đối với người nhỏ hơn mình, thì tận tình giúp đỡ. 7- Santussako là người biết tri túc trong của cải của mình. Tri túc trong của cải có 3 ý nghĩa – Hài lòng trong của cải mình đã có sẵn. – Hài lòng trong của cải của mình đang có được. – Hài lòng trong của cải dù tốt dù xấu tâm không coi trọng đồ tốt, không coi khinh đồ xấu. 8- Subharo là người dễ nuôi, người khác nuôi dưỡng như thế nào cũng hoan hỉ như thế ấy, không hề lựa chọn, phân biệt tốt xấu, ngon dở, nhiều ít, có không, 9- Appakicco là người ít công ít việc. ối với hành giả tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ ít công việc chừng nào tốt chừng ấy; vì ít công việc thì mới có nhiều thì giờ hành đạo. 10- Sallahuvutti là người có đời sống nhẹ nhàng; đi lại nhẹ nhàng, giống như con chim có đôi cánh để bay, có cái mỏ để kiếm ăn vừa đủ nuôi mạng trong ngày. Hành giả có đời sống nhẹ nhàng, đối với bậc xuất gia chỉ cần có 8 món vật dụng cần thiết hằng ngày, nhất là tam y mặc che thân, có cái bát để đi khất thực nuôi mạng trong ngày. 11- Santindriyo là người biết thu thúc lục căn thanh tịnh. Khi mắt nhìn thấy sắc đẹp hoặc xấu; khi tai nghe âm thanh hay hoặc dở; khi mũi ngửi mùi thơm hoặc hôi; khi lưỡi nếm vị ngon hoặc dở; khi thân xúc giác cứng hoặc mềm, nóng hoặc lạnh khi tâm biết các đối tượng đáng hài lòng hoặc không đáng hài lòng, hành giả biết thu thúc lục căn thanh tịnh không để cho phiền não tham, sân, si phát sanh, chỉ có thiện tâm phát sanh mà thôi. 12- Nipako là người có trí tuệ thông minh sáng suốt, hiểu biết rõ sự lợi ích cao thượng Niết Bàn, chỉ mong thực hành pháp hành thiền tuệ để mau chóng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh ạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn giải thoát khổ sanh mà thôi. 13- Appagabbho là người có thân, khẩu, ý được trau dồi thuần đức. 14- Kulesu ananugiddho là người không quyến luyến trong các gia đình, để tránh tình trạng vui cùng vui với nhau, khổ cùng khổ với nhau. 15- Yena viññū pare upavadeyyuṃ, na ca khuddamācare kiñci những bậc Thiện trí chê trách điều ác nào, không làm điều ác ấy dù là rất nhỏ. ó là 15 pháp hành mà hành giả phải nên thực hành đầy đủ trước khi tiến hành đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh. Nếu hành giả thực hành không đầy đủ 15 pháp hành này trước, thì sự tiến hành đề mục niệm rải tâm từ không đạt được hiệu quả tốt trong pháp hành thiền định. Ví dụ Người nông dân trước khi gieo trồng hạt giống xuống đất, cần phải làm cỏ cho sạch, cày sâu bừa kỹ, dẫn nước vào, rải phân, đó là giai đoạn đầu phải làm đầy đủ, tiếp theo mới gieo giống, khi ấy hạt giống mới có đủ điều kiện nảy mầm thành cây rồi tăng trưởng… Nếu người nông dân làm không đầy đủ khâu đầu tiên, thì việc gieo trồng không đạt được hiệu quả tốt trong nông nghiệp. Giai đoạn thứ nhì Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ. Sau khi thực hành đầy đủ 15 pháp hành phần đầu của bài kinh Tâm Từ, đến giai đoạn thứ nhì, hành giả bắt đầu tiến hành niệm rải tâm từ theo tinh thần cốt lõi bài kinh Tâm Từ Mettāsutta có 2 phần I- Phần đầu Hành giả niệm rải tâm từ, cầu mong tất cả chúng sinh được sự tiến hoá, sự an lạc gọi là hitasukhāgamapatthanāmettā. Trong phần này, niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có ba phương pháp 1- Sabbasaṅgāhikamettā Tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp. 2- Dukabhāvanāmettā Tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm. 3- Tikabhāvanāmettā Tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm. 1- Tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp như thế nào? Tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp gom vào nhau, không phân loại chúng sinh khác nhau. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh không giới hạn, theo bài kệ trong bài kinh Tâm Từ như sau “Sukhino vā khemino hontu. Sabbe sattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh, thân thường an lạc, được bình an vô sự; tâm thường được an lạc. Khai triển phương pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp này theo trạng thái có ba phương pháp tiến hành Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng “Sabbe sattā sukhino hontu”. Cầu mong tất cả chúng sinh, thân thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng “Sabbe sattā khemino hontu”. Cầu mong tất cả chúng sinh, sống được bình an vô sự. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng “Sabbe sattā sukhitattā bhavantu”. Cầu mong tất cả chúng sin,h tâm thường được an lạc. ó là phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp chung trong tam giới [6] gồm có 31 cõi, có 4 loại chúng sinh [7] không giới hạn, không ngoại trừ hạng chúng sinh nào. 2- Tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm như thế nào? Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm gồm 4 loại như sau – Tasa thāvara duka chúng sinh còn sợ và không còn sợ. – Diṭṭhādiṭṭha duka chúng sinh được nhìn thấy và không được nhìn thấy. – Dūra santika duka chúng sinh ở xa và ở gần. – Bhūtā sambhavesi duka chúng sinh là bậc Thánh A-ra-hán và bậc Thánh Hữu Học, với hạng phàm nhân. Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm tuần tự như sau Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi tasā vā thāvarā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh còn sợ hạng phàm nhân và bậc Thánh Hữu Học [8]; và hạng chúng sinh không còn sợ bậc Thánh A-ra-hán, thân tâm thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi diṭṭhā vā adiṭṭhā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh được nhìn thấy và hạng chúng sinh không được nhìn thấy, thân tâm thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi dūrā vā avidūrā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh ở nơi xa và hạng chúng sinh ở nơi gần, thân tâm thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi bhūtā vā sambhavesī vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh đã thành rồi bậc Thánh A-ra-hán; và hạng chúng sinh còn phải tái sanh kiếp sau bậc Thánh Hữu Học và hạng phàm nhân, thân tâm thường được an lạc. ó là phương pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm trong tam giới. 3- Tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm như thế nào? Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm gồm 3 loại như sau Dīgha rassa majjhima tika chúng sinh có thân hình dài, ngắn, trung bình. Mahantāṇuka majjhima tika chúng sinh có thân hình to, nhỏ, trung bình. Thulāṇuka majjhima tika chúng sinh có thân hình mập, ốm, trung bình. Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có thân hình khác nhau phân chia làm 3 nhóm tuần tự như sau Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi dīghā vā rassā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình dài, thân hình ngắn, thân hình trung bình không dài không ngắn, thân tâm thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi mahantā vā aṇukā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình to lớn, thân hình nhỏ bé, thân hình trung bình không lớn không nhỏ, thân tâm thường được an lạc. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác nữa rằng “Ye keci pāṇabhūtatthi thūlā vā aṇukā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā”. Cầu mong tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình mập mạp, thân hình gầy ốm, thân hình trung bình không mập không gầy, thân tâm thường được an lạc. ó là phương pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác nhau trong tam giới. Tóm lại, ba phương pháp niệm rải tâm từ tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp; tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm; tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm. Cả ba phương pháp này đều có tâm từ cầu mong cho tất cả chúng sinh trong tam giới, được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc gọi là hitasukhāgamapatthanāmettā niệm rải tâm từ cầu mong tất cả chúng sinh đều được sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài. II- Phần hai Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ, cầu mong chúng sinh không có sự thoái hoá, sự khổ não không xảy đến với chúng sinh gọi là ahitadukkhānagamapatthanāmettā. Phần này, niệm rải tâm từ trong những trường hợp như sau Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng “Na paro paraṃ nikubbetha”. Cầu mong người này không nên lừa đảo làm khổ người kia. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng “Katthaci kiñci naṃ nātimaññetha”. Cầu mong người này không khinh thường người khác bất cứ nơi nào. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng “Byārosanā paṭighasaññā aññamaññassa dukkhaṃ na iccheyya”. Cầu mong chúng sinh đừng làm khổ lẫn nhau bằng thân hoặc bằng khẩu do tâm sân oán thù. ó là phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh cầu mong chúng sinh không có sự thoái hoá, sự khổ não không xảy đến với chúng sinh, chỉ có sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc thường phát sanh đến tất cả chúng sinh mà thôi. Tâm từ như thế nào? Tâm từ là tình thương đối với tất cả chúng sinh như ức Phật dạy “Mātā niyaṃ puttaṃ, ekaputtaṃ āyusā anurakkhe yathā, evampi sabbabhūtesu aparimāṇaṃ mānasaṃ bhāvaye”. Ví như một từ mẫu thương yêu đứa con duy nhất, bà đặt trọn vẹn tình thương yêu của mình nơi đứa con ấy, giữ gìn, dưỡng dục đứa con yêu quý độc nhất bằng sanh mạng của mình như thế nào, hành giả tiến hành niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh không giới hạn cũng như thế ấy. “Uddhaṃ adho ca tiriyañca, asam-bādhaṃ averaṃ asapattaṃ”. Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến toàn thể thế giới chúng sinh hướng trên, 4 cõi trời vô sắc giới phạm thiên; hướng dưới 11 cõi dục giới; ở khoảng giữa 16 cõi trời sắc giới phạm thiên, với tâm từ trong thiện tâm không hẹp lượng, toả rộng khắp vô lượng vô biên, không có tâm sân oan trái là kẻ thù bên trong, không có kẻ thù bên ngoài. Do năng lực tâm từ vô lượng nên xoá bỏ được giới hạn ranh giới giữa các chúng sinh, giữa mình với tất cả chúng sinh đều mang tính chất đồng đẳng với nhau. Hành giả chứng đắc bậc thiền sắc giới với đề mục niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh không giới hạn. ề mục niệm rải tâm từ này có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới cho đến đệ tứ thiền sắc giới,nhưng không thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới, bởi vì đề mục niệm rải tâm từ này luôn luôn cần có chi thiền lạc; còn đệ ngũ thiền sắc giới thì cần phải diệt chi thiền lạc thay bằng chi thiền xả. Do đó, đề mục niệm rải tâm từ không thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới. “Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno vā, sayāno vā yāvatā’ssa vitamiddho, etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya. Idha etaṃ brahmaṃ vihāraṃ āhu”. Khi hành giả đang đứng hoặc đang đi hoặc đang ngồi hoặc đang nằm mà không buồn ngủ, khi ấy tâm an trú trong bậc thiền sắc giới với tâm từ vô lượng. ức Phật dạy “Hành giả có bậc thiền với tâm từ đó là cách sống cao thượng”. Tâm từ với thiền tuệ ề mục niệm rải tâm từ có đối tượng chúng sinh thuộc chế định pháp paññattidhamma, cho nên, khi hành giả tiến hành thiền định với đề mục này, chỉ có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc giới, nhưng chắc chắn không thể chứng đắc Thánh ạo – Thánh Quả và Niết Bàn được. Muốn chứng đắc Thánh ạo – Thánh Quả và Niết Bàn, hành giả cần phải tiến hành thiền tuệ, có đối tượng danh pháp, sắc pháp thuộc chân nghĩa pháp paramatthadhamma. Vì vậy, sau khi đã chứng đắc bậc thiền sắc giới nào rồi, hành giả cần phải thoát ra khỏi bậc thiền sắc giới ấy, dùng tâm thiền hoặc chi thiền của bậc thiền ấy làm nền tảng, làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ. ối tượng của pháp hành thiền tuệ đó là tâm thiền hoặc chi thiền của bậc thiền ấy thuộc về danh pháp,và tâm thiền ấy phát sanh do nương nhờ sắc ý căn hadayavatthurūpa thuộc về sắc pháp. Hành giả tiến hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp ấy làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh ạo – Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não tà kiến nơi ngũ uẩn và hoài nghi không còn dư sót nữa. ức Phật dạy “Diṭṭhiñca anupagamma, sīlavā dassanena sampanno”. Bậc Thánh Nhập Lưu hoàn toàn không còn tà kiến chấp ngã nơi ngũ uẩn nữa, bởi do Nhập Lưu Thánh ạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được phiền não tà kiến nơi ngũ uẩn và hoài nghi không còn dư sót nữa; cho nên, bậc Thánh Nhập Lưu có giới đức hoàn toàn trong sạch có định và tuệ chưa hoàn toàn. Bậc Thánh Nhập Lưu tiếp tục tiến hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp ấy làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh ạo – Nhất Lai Thánh Quả và Niết Bàn; rồi Bất Lai Thánh ạo – Bất Lai Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn tâm tham ái trong ngũ trần sắc, thanh, hương, vị, xúc ở cõi dục giới, chỉ còn tâm tham ái trong cõi sắc giới và cõi vô sắc giới mà thôi. ức Phật dạy “Kāmesu vineyya gedhaṃ”. Bậc Thánh Nhất Lai có khả năng diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái trong ngũ trần loại thô cõi dục giới,còn loại vi tế chưa diệt được; đến bậc Thánh Bất Lai mới có khả năng diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái trong ngũ trần loại vi tế cõi dục giới không còn dư sót, song tâm tham ái trong cõi sắc giới và vô sắc giới chưa diệt được. Cho nên, bậc Thánh Bất Lai không tái sanh trở lại cõi dục giới, chỉ còn tái sanh lên cõi sắc giới phạm thiên và cõi vô sắc giới phạm thiên mà thôi. Bậc Thánh Bất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp ấy làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp sắc pháp ấy; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh ạo – A-ra-hán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi tâm tham ái trong cõi sắc giới và cõi vô sắc giới không còn dư sót, sẽ tịch diệt Niết Bàn ngay kiếp hiện tại ấy, không còn tái sanh trở lại kiếp sau khác nữa, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. ức Phật dạy “Na hi jātuggabbhaseyyaṃ puna reti”. Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc A-ra-hán Thánh ạo – A-ra-hán Thánh Quả và Niết Bàn, đã diệt đoạn tuyệt tất cả tâm tham ái không còn dư sót rồi, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, chắc chắn sẽ tịch diệt Niết Bàn, không còn tái sanh kiếp sau khác nữa, giải thoát hoàn toàn mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong tam giới. Giải thích xong bài kinh Tâm Từ. Nhận xét trước và sau bài kinh Tâm Từ Lần trước, chưa học và hành bài kinh Tâm Từ Mettāsutta, 500 chư Tỳ khưu vào trú ngụ tại khu rừng núi, làm cho nhóm chư thiên ở cội cây nơi ấy khổ thân khổ tâm. Nhóm chư thiên ấy đã hoá ra những cảnh tượng rùng rợn, làm cho chư Tỳ khưu kinh hồn hoảng sợ phải từ bỏ khu rừng núi ấy trở về hầu đảnh lễ ức Thế Tôn, xin phép an cư nhập hạ ở một nơi khác. Lần sau, học và hành bài kinh Tâm Từ này, 500 chư Tỳ khưu trở lại vào trú ngụ tại khu rừng núi cũ, làm cho nhóm chư thiên ở cội cây nơi ấy thân tâm an lạc, mát mẻ do năng lực niệm rải tâm từ của chư Tỳ khưu; nhóm chư thiên ấy hoan hỉ hộ trì chư Tỳ khưu trú ngụ tại khu rừng núi ấy, thân tâm thường được an lạc, tinh tấn tiến hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ, chứng đắc bậc thiền sắc giới, và tiếp theo tiến hành thiền tuệ, tất cả 500 chư Tỳ khưu đều chứng đắc đến A-ra-hán Thánh ạo – A-ra-hán Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy. Năm trăm chư Tỳ khưu này là những bậc có giới đức trong sạch, có đầy đủ pháp hạnh ba la mật để chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán, nhưng thiếu pháp hành niệm rải tâm từ làm cho chư thiên mát mẻ, an lạc, nên chư thiên đã gây trở ngại cho việc tiến hành thiền tuệ của chư Tỳ khưu. Nhưng về sau, chư Tỳ khưu học và hành đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh không giới hạn, làm cho chư thiên ở cội cây trong khu rừng núi ấy thân tâm được an lạc, mát mẻ; thay vì làm cho chư Tỳ khưu kinh hồn hoảng sợ như trước, thì chư thiên lại hoan hỉ hộ trì chư Tỳ khưu an cư nhập hạ, thân tâm an lạc, tinh tấn tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, tất cả đều chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy. Bởi vậy cho nên, pháp hành niệm rải tâm từ là một pháp hành cần thiết hỗ trợ không những đối với hành giả tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, mà còn là pháp hành hỗ trợ cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh được thân tâm an lạc, mát mẻ trong tình thương, yêu quý mến lẫn nhau. -ooOoo- [1] Sinh vật vật có sự sống như tất cả chúng sinh, động vật, thực vật,… chúng có sự sanh, sự tăng trưởng, sự già, sự chết. [2] Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm, và tâm sở có 52 tâm sở; trong số tâm, tâm sở này không có tâm nào trực tiếp gọi là tâm từ. [3] Tịnh hảo tâm gồm có 59 hoặc 91 tâm. [4] Majjhimanikāya, Mūlapaṇṇāsa, Cuḷagosingasutta & Aṭṭhakathā. [5] Khuddakanikāya, bộ Suttanipāta, kinh Mettāsutta, toàn bài kinh xin xem ở phần sau. [6] Tam giới dục giới có 11 cõi, sắc giới có 16 cõi, vô sắc giới có 4 cõi. [7] 4 loại chúng sinh thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hoá sinh. [8] Bậc Thánh Hữu Học có 3 hạng bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai. Traimoxanh kính mời quý vị nghe bản “Kinh rải tâm từ” bằng tiếng PaliThe Chant of MettaBài kệ Rải Tâm TừAham avero homiabyãpajjho homianĩgho homisukhĩ-attãnam pariharãmiNguyện cho tôi thoát được mọi oan tráitâm không phiên nãothân không đau đớnthân tâm được an lạc Mama mãtãpituãcariya ca nãtimittã casabrahmã-carino caNguyện cầu cho cha mẹ,thầy tổ, bà con, bạn bèvà đạo hữuAverã hontuabyãpajjhã hontuanĩgha hontusukhĩ-attãnam khỏi mọi oan tráitâm không phiền nãothân không đau đớngiữ gìn thân tâm được an ãrãme sabbe yoginoaverã hontuabyãpajjhã hontuNguyện cầu cho tất cả thiền sinh nơi đâythoát khỏi mọi oan tráitâm không phiền nãoanĩgha hontusukkhĩ-attãnam không đau đớngiữ gìn thân tâm được an ãrãne sabbe bhikkhusãmanera caupãsaka-upasikãyo caNguyện cầu cho tất cả chư tăngsa di namvà nữ cư sĩ ở nơi đâyaverã hontuabyãpajjhã hontuanĩgha hontusukkhĩ-attãnam pariharantuthoát khỏi mọi oan tráitâm không phiên nãothân không đau đớngiữ gìn thân tâm được an catupaccaya-dãyakãaverã hontuabyãpajjha hontuNguyện cầu cho tất cả thí chủ cúng dường tứ vật dụngthoát khỏi mọi oan tráitâm không phiền nãoanĩgha hontusukkhĩ-attãnam pariharantuthân không đau đớngiữ gìn thân tâm được an ãrakkha devatãimasmim vihãreimasmim ãvãseimasmim ãrãmeãrakkha devatãNguyện cầu cho tất cả chư thiênhộ trì ở tu viện nàyhộ trì ở nơi trú ngự nàyhộ trì ở khu vực nàycác chư thiên hộ trìaverã hontuabyãpajjhã hontuanĩgha hontusukkhĩ-attãnam pariharantuthoát khỏi mọi oan tráitâm không phiên nãothân không đau đớngiữ gìn thân tâm được an sattãsabbe pãnãsabbe bhũtasabbe puggalãNguyện cầu cho tất cả chúng sanhcác loài có hô hấpcác loài động vậtcác loài sinh vậtsabbe attabhãva-pariyãpannãsabba itthiyosabbe purisãsabbe ariyãnguyện cầu cho tất cả các loài có thân và tâmtất cả nữ giớitất cả nam giớitất cả bậc thánhsabbe anariyãsabbe devãsabbe manussãsabbe cầu cho người phàmcho chư thiêncho loài người và chúng sanhtrong bốn cõi khổ averã hontuabyãpajjhã hontuanĩgha hontusukkhĩ-attãnam pariharantuthoát khỏi mọi oan tráitâm không phiên nãothân không đau đớngiữ gìn thân tâm được an muccantuYatha-laddha-sampattito mavigacchantuKamassakãHết khổ đauKhông bị tước đoạt hạnh phúc đã cóMỗi chúng sinh là chủ nhân của nghiệp do mình tạo raPuratthimãya disãyapacchimãya disãyauttarãya disãyadakkhinãya disãyapuratthimãya anudisãyapacchimãya anudisãyaNơi hướng đôngnơi hướng tâynơi hướng bắcnơi hướng namnơi hướng đông namnơi hướng tây bắc uttarãya anudisãyadakkhinãya anudisãyahetthimãya disãyauparimãya hướng đông bắcnơi hướng tây namnơi hướng dướinơi hướng trên Sabbe sattãsabbe pãnãsabbe bhũtasabbe puggalãNguyện cầu cho tất cả chúng sanhcác loài có hô hấpcác loài động vậtcác loài sinh vật sabbe attabhãva-pariyãpannãsabba itthiyosabbe purisãsabbe ariyãnguyện cầu cho tất cả các loài có thân và tâmtất cả nữ giớitất cả nam giớitất cả bậc thánh sabbe anariyãsabbe devãsabbe manussãsabbe cầu cho người phàmchư thiênloài người và chúng sanhtrong bốn cõi khổaverã hontuabyãpajjhã hontuanĩgha hontusukkhĩ-attãnam pariharantuthoát khỏi mọi oan tráitâm không phiên nãothân không đau đớngiữ gìn thân tâm được an lạc. Dukkhã muccantuYatha-laddha-sampattito mavigacchantuKamassakã Hết khổ đauKhông bị tước đoạt hạnh phúc đã cóMỗi chúng sinh là chủ nhân của nghiệp do mình tạo raUddham yãva bhavaggã caadho yãva avĩccitosamantã cakkavãlesuXa đến cõi cao nhấtxuống đến cõi thấp nhấttrong toàn thể vũ trụye sattã pathavĩ-carãabyãpajjha niverã caniddukkhã ca nupaddavãtất cả chúng sanh đi trên đấtđược thoát khỏi phiền não và thù hậntránh được đau đớn và hiểm nguyUddham yãva bhavaggã caadho yãva avĩccitosamantã cakkavãlesuXa đến cõi cao nhấtxuống đến cõi thấp nhấttrong toàn thể vũ trụye sattã udakecarãabyãpajjha niverã caniddukkhã ca nupaddavãtất cả chúng sanh sống trong nướcđược thoát khỏi phiền não và thù hậntránh được đau đớn và hiểm nguyUddham yãva bhavaggã caadho yãva avĩccitosamantã cakkavãlesuye sattã akãsecarãXa đến cõi cao nhấtxuống đến cõi thấp nhấttrong toàn thể vũ trụtất cả chúng sanh ở trong không gianabyãpajjha niverã caniddukkhã ca nupaddavãđược thoát khỏi phiền não và thù hậntránh được đau đớn và hiểm nguyImãya dhammã nudhammapatipattiyãBudham pũjemiBằng sự thực hành đúng chánh phápcon xin cúng dường Đức PhậtImãya dhammã nudhammapatipattiyãDhamam pũjemiBằng sự thực hành đúng chánh phápcon xin cúng dường Pháp BảoImãya dhammã nudhammapatipattiyãSangham pũjemiBằng sự thực hành đúng chánh phápcon xin cúng dường Tăng BảoImãya dhammã nudhammapatipattiyãmãtãpitaro pũjemiBằng sự thực hành đúng chánh phápcon xin cúng dường cha mẹImãya dhammã nudhammapatipattiyããcariye pũjemiBằng sự thực hành đúng chánh phápcon xin cúng dường thầy tổAddhã imãyapatipadãyajarãmaranamhãparimusisãmiVới việc hành thiền nàynguyện cho tôi thoát khỏisự khổ của giàvà chếtIdam me pũnnamãsavakkhayãvaham hotuNguyện cho những phước lành của tôidẫn đến sự tận diệt những lậu hoặcIdam me pũnnammagga-phalanãnassa paccayo hotuNguyện cho giới đức trong sạch của tôisẽ là duyên lành dẫn đến Đạo và quảIdam no pũnna-bhãgamsabbasattãnam demaChúng tôi xin hồi hướng phước báu nàyđến tất cả chúng sanhSabbe sattã sukhitã hontuNguyện cho tất cả chúng sanh được an vuiSadhu!Sadhu!SadhuLành thay! Lành thay! Lành thay!Nguồn Bản dịch Việt ngữ của thiền viện Phước Sơn Nghiên cứu về tâm từ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về một trong những phương pháp thuần phục, rèn luyện tâm. Thực tập tâm từ và tứ vô lượng tâm giúp chúng ta tiến gần hơn trên con đường giải thoát. Vậy tâm từ là gì? Tâm từ được hiểu qua kinh điển Tâm từ được hiểu là không phải sự yêu thương xác thịt, thân thể, không phân biệt thân sơ mà sự thương yêu bao trùm cả vạn loại, không bờ bến, không hạn định.“Trạng thái cao thượng đầu tiên là tâm từ’, tiếng Pāli là Mettā, Sanskrit là Maitri” [1]. Tâm từ như là điều hiển nhiên được nhận định dành cho người xuất gia hay thậm chí cả Phật tử tại gia khi am hiểu giáo lý. Ngay cả với Đức Thế Tôn, hội chúng cũng cho rằng mục đích Ngài xuất hiện ở đời không vì y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thành bại mà “với từ tâm, vì lợi tha và do lòng từ, Thế Tôn thuyết pháp” [2]. Vậy từ tâm của Ngài được hiểu như thế nào? Với người tại gia Trong Kinh Pháp Cú có câu “Với hận diệt hận thù, Đời này không có được. Không hận diệt hận thù, Là định luật ngàn thu” [3]. Từ trong các mối quan hệ hàng ngày, đặc biệt là gia đình, từ tâm đóng vai trò cấp thiết giúp gia đình hạnh phúc, không bị đổ vỡ. Mỗi thành viên đều chứa đựng tâm yêu thương lẫn nhau, từ đó sẽ dễ dàng tha thứ lỗi lầm hay những khuyết điểm của nhau. Như Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật dạy các thiếu nữ “Đối với những người chồng nào, mẹ cha cho các con, vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên, đối với vị ấy, chúng ta sẽ thức dậy trước, chúng ta sẽ đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận làm mọi công việc, xử sự đẹp lòng, lời nói dễ thương” [4]. Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Thế Tôn cũng đã khen ngợi Sàmàvati là vị trú tâm từ tối thắng trong các vị nữ đệ tử của Ngài [5]. Cho thấy, Đức Phật rất xem trọng sự tu tập tâm từ trong các hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia. Với người xuất gia Đức Phật luôn định hướng và đặc biệt lưu tâm đối với sự thực tập, hành trì của chư vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni về tâm từ trong đời sống hàng ngày. Khi vị Tỳ-kheo buộc tội vị khác trên tinh thần can gián lẫn nhau, giúp vị kia tốt hơn cũng phải quan sát rằng “Ta có an lập từ tâm, không sân hận đối với các đồng phạm hạnh hay không?” [6]. Cho thấy, chỉ có từ tâm mới khiến chư vị sống trong Tăng đoàn hòa hợp như nước hòa với sữa. Cụ thể như trường hợp Đức Phật dạy“Có hạng người thấp kém về giới, định, tuệ. Hạng người như vậy, này các Tỳ kheo, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường, trừ khi vì lòng thương tưởng, vì lòng từ lân mẫn” [7]. Khi có lòng từ, hành giả sẽ nhìn sự việc rộng hơn vì nghĩ rằng không bao lâu nếu vị này tinh cần tu tập sẽ đạt được thắng trí. Cách để tu tập Thánh đệ tử, hiện pháp lạc trú, không bị đọa ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chấm dứt khổ đau, hành giả cần thực hành năm pháp hoàn hảo. Trong năm pháp này, Kinh Trung A-hàm cũng dạy rõ trong pháp thứ nhất là người tu phải có tâm từ luôn sẵn sàng đem đến lợi ích chúng hữu tình, không bao giờ khởi lên ý niệm cũng như hành động thân, khẩu về các việc giết hại chúng sanh [8]. Đức Phật là hình tượng rõ nét nhất và rải tâm từ bi Cả cuộc đời Ngài từ khi hoằng truyền chánh pháp đến lúc nhập Niết bàn, tâm Ngài luôn tràn đầy lòng từ bi đối với chúng sanh. Ngài luôn cân nhắc lời nói khi thuyết giảng. Cụ thể trong kinh, Ngài nói rõ chỉ giảng những lời như sự thật, như chân lý, tương ứng với mục đích thì dù người nghe có ưa thích hay không, Ngài vẫn sẽ giảng thuyết. Điều này được Đức Như Lai khẳng định vì Ngài có lòng thương tưởng đối với các loài hữu tình [9]. Cho thấy, lòng từ của Ngài rộng lớn, vô biên, luôn đặt lợi ích an lạc, giải thoát cho chúng sanh lên trên hết. Điều này giống như hình ảnh minh họa có đứa nhỏ vô tình nuốt vật gì trong miệng, người cha sẽ tìm mọi cách như đưa tay vào móc ra dù có bị chảy máu, đây là vì lòng thương tưởng đứa trẻ. Cũng vậy, điều Ngài thuyết giảng dù chúng hữu tình không thích nghe và bực tức, khó chịu nhưng vì lợi ích sau này, Ngài vẫn sẽ thuyết. Với tâm từ bi rộng lớn, Ngài đã cảm hóa rất nhiều đệ tử hữu duyên từ xuất gia đến tại gia, đủ các tầng lớp đệ tử khác nhau trong xã hội, từ vua chúa, quan lại đến giai cấp thấp ngoài rìa xã hội. Điển hình, đối với Angulimàla – tướng cướp hung hãn đã quy y Tam bảo, xuất gia nương tựa Ngài. Thế Tôn lại “nhiếp phục được người không thể nhiếp phục, làm cho an tịnh được người không thể an tịnh, làm cho tịch diệt được người không thể tịch diệt” [10]. Đặc biệt, Ngài đã giáo hóa với tâm từ, không gậy, kiếm. Lòng từ chan hòa đến khắp nơi mà Ngài du hành đặt chân đến để giáo hóa, tất cả đều chính do nhờ phước báo tu tập bồ tát hạnh của Ngài, được ghi chép ở Jataka, chuyện tiền thân Đức Phật trong Tiểu Bộ Kinh. Như câu chuyện nai chúa, chính là tiền thân Đức Phật với “đầy đủ kham nhẫn, hòa ái, từ bi” [11], sẵn sàng hy sinh thân mạng để xin vua tha mạng cho cả bầy nai. Cho thấy, không chỉ Đức Thế Tôn trong kiếp sống này đã tu tập từ tâm lập vô số công hạnh Bồ-tát trước khi thành quả vị Phật mà chư vị Phật trong nhiều kiếp trước cũng vậy. Điển hình sự toàn hảo về từ ái của Đức Bồ-tát Suvaṇṇasāma “Sāmo yadā vane āsiṃ sakkena abhinimmito pavane sīhabyagghehiva mettāya-m-upanāmayiṃ”. Vào lúc ta là Sāma ở trong khu rừng đã được Chúa Trời Sakka hóa hiện ra. Ở trong khu rừng lớn, ta đã rải tâm từ ái đến các loài sư tử và cọp [12]. Tâm từ bi cùng với trí tuệ Tâm từ vốn là căn bản, nền tảng trong đời sống hằng ngày. Như trong Kinh Hạt Muối [13], Đức Phật đã dạy sự khác nhau giữa bỏ một nắm hạt muối nghiệp vào trong chén đựng nước hay vào sông Hằng, tiêu biểu cho công đức mình tạo nhiều hay ít mà trở nên mặn hay không mặn, uống được hay không uống được. Hành giả tu tập ban rải tâm từ càng rộng lớn, phước lành đạt được cũng lớn dần, dẫn đến muội lược dần nghiệp xấu ác đã lỡ tạo trong kiếp này hay nhiều kiếp trước. Dù pháp môn niệm tâm từ đem đến quả báo lành lớn nhưng tâm từ phải luôn có mặt của trí tuệ nếu không chúng ta có thể có những hành động, ý nghĩ ngược lại với tâm từ. Có những trường hợp cho rằng thực hiện với mục đích thiện tốt nhưng chỉ đem lợi ích cho bản thân hay một số ít người nào đó, không phải vì số đông. Hoặc người thực hiện lòng từ đối với mọi người nhưng theo tà kiến ngoại đạo. Trong cuộc sống, mọi người luôn cần quân bình giữa lý trí và tình cảm, đó cũng là sự đi đôi giữa trí óc và con tim. Hành giả cần tuệ tri nhận rõ những vị kỷ, hẹp hòi, nhỏ nhen cần buông bỏ, từ đó hướng tâm đến muôn loài, vạn vật. Cho nên, đạo Phật luôn được mệnh danh là đạo từ bi và trí tuệ. Người có trí sẽ thấy rõ thực tướng các pháp, thấy rõ hiện tượng vô thường, vô ngã. Họ nhìn nhận các vấn đề theo nhiều phương diện khác nhau nên không dễ dàng tin những sự việc chỉ thấy, nghe theo phiến diện. Trí tuệ thật sự khi thấy và hiểu biết với tâm mở rộng, khách quan, không theo cảm tính bản thân mà theo hiểu biết chơn chánh. Từ những điều này, hành giả thực tập tâm từ mới đạt được lợi ích chân thật, đồng thời có được đức tín can đảm, mềm dẻo, chịu đựng. Lợi ích khi tu tập tâm từ Thực hành rải tâm từ mang rất lợi ích thiết thực trong cuộc sống hiện tại. Trong Kinh Tăng Chi Bộ VI, Đức Phật đã chỉ ra mười một lợi ích chuyên hành trì tu tập tâm từ mà sau khi miên mật, tinh cần sẽ đạt được như “ngủ an lạc; thức an lạc; không ác mộng; được loài người ngưỡng mộ; được phi nhân ái kính; được chư thiên bảo hộ; không bị lửa, thuốc độc, đao kiếm xúc chạm; được thiền định mau chóng, sắc mặt tươi sáng; khi mệnh chung không hôn ám; nếu chưa thể nhập thượng pháp được sanh lên phạm thiên giới” [14]. Tâm từ là một trong những yếu tố thuộc các pháp tác thành hạnh Sa môn [15]. Là vị Sa-môn chân chánh và như thật, hành giả phải thọ trì và thực hành như giới hạnh, chánh niệm trong các căn, tiết chế tri túc trong ăn uống, luôn phòng hộ tâm, tỉnh thức giác ngộ trong từng sát na, đoạn trừ các triền cái, bốn tầng thiền-na, ba minh, bậc A-la-hán. Trong các pháp đoạn trừ các triền cái, hành giả phải từ bỏ sân hận, sống với lòng từ mẫn, thương xót tất cả chúng hữu tình, dần gột rửa hết sân hận. Nhờ đạt được tâm từ mẫn, không còn sân hận, hành giả dễ dàng đoạn trừ dần những pháp triền cái khác, tiến nhanh trên lộ trình tu tập. Từ đó, hành giả thọ nhận đồ cúng dường như thực phẩm, y phục, dược phẩm,… mới có kết quả, phước báu lớn cho chúng ta và người dâng cúng. Ngoài ra, chính tâm từ cũng là nhân duyên tác động đến nghiệp quyết định nơi tái sanh thiện thú hay ác thú sau khi thân hoại mạng chung hay người liệt, kẻ ưu trong đời sau. Điều này được Đức Phật dạy người tu tập phải từ bỏ và tránh sát sanh, bỏ đao, gậy, kiếm, đồng thời phải biết tàm quý và đặc biệt có lòng từ, sống thương yêu, nghĩ đến hạnh phúc cho cả ba giới bốn loài, đặc biệt là chúng hữu tình [16]. Đức Phật nhấn mạnh “Nếu có người thực hành từ tâm giải thoát rộng lớn vô lượng, khéo tu tập như vậy, chắc chắn chứng quả A-na-hàm, hoặc chứng cao hơn nữa” [17]. Từ đó, hành giả tu Phật nên lưu tâm đến sự tu tập, hành trì miên mật tâm từ để đạt được quả Thánh, vì công năng tâm từ rất lớn, định hướng rõ con đường cần hướng đến của người tu theo Phật. Qua Kinh Du Hành, người học Phật hiểu hơn về sáu pháp bất thối pháp khiến Phật pháp hưng thịnh, trường tồn hơn, trong đó có ba pháp vận dụng tâm từ. Đó là thân phải luôn hành động, ứng xử một cách từ ái, không bao giờ có ý niệm gây tổn hại chúng sanh; miệng nói lời ái ngữ, không bao giờ phát ra lời ác độc; ý luôn niệm niệm gắn với từ tâm [18]. Do vậy, hành giả càng chú trọng hơn về thân, khẩu, ý trong tu tập để khiến cho chánh pháp ngày càng trường tồn và đặc biệt luôn phát khởi và gìn giữ tâm từ trong ba nghiệp. Chánh pháp có cửu trụ ở Ta-bà hay không chính do mỗi cá nhân quyết định. Tâm từ bi là linh dược Đức Thiện Thệ cũng giảng về phước báu thù thắng sẽ đến với chính người hành trì khi chuyên tâm hành từ tâm. Người ấy, trong khoảnh khắc thời gian một mũi tên bắn đi, sẽ được sanh đến cõi Phạm Thiên [19]. Ở bản kinh khác, Đức Thế Tôn cũng dạy tương tự, đó là hành giả đạt được phước tối thắng khi nghĩ nhớ chúng sanh với tâm từ với khoảnh khắc vắt sữa bò [20]. Song song với lợi ích thực tập tâm từ, Đức Phật cũng nhấn mạnh trong Trường A-hàm, Kinh Tam Tụ về một pháp đưa đến cõi ác thú, đó là do tâm chưa bao giờ có nhân từ và chỉ luôn ôm ấp tâm niệm độc hại. Con người khi không có lòng từ, tình yêu thương đến đồng loại là con đường dễ nhất thẳng đến ác thú, ba cõi ác. Điều kiện để hành trì, tu tập tâm từ bi Để phát triển và hành trì miên mật tâm từ, hành giả cần dung hòa giữa từ bi và trí tuệ. Cần hiểu theo trí tuệ rồi mới thương bằng lòng từ. Hành giả cũng cần hiểu rõ bản thân về khả năng và năng lực chính mình, đồng thời đi đôi với điều này, người tu tập cũng cần am tường điểm yếu của mình. Đôi khi vì quá thương người theo cảm tính, dần dần hành giả đẩy người được giúp đỡ luôn dựa dẫm, không tự mình vươn lên và ngày càng nhiều những người chuyên sống dựa vào người khác, trong khi mình vẫn có khả năng. Con đường tu tập tâm từ luôn phải song hành cùng tinh thần phụng sự, độ tha nếu không hành giả trở thành người nhu nhược, yếu đuối lấy từ bi che chắn khi đối diện chướng duyên. Tùy từng người tu mà có những cấp từ bi khác nhau. Tâm chưa đủ rộng lớn, bao dung thì không nên ngượng ép, điều này không đem đến lợi ích mà ngược lại tạo nên áp lực nặng nề lên chính mình. Vì vậy, mỗi hành giả cần luyện tập từng giờ, từng phút, từng ý niệm đến mỗi câu nói hành động đều toát lên từ bi, trí tuệ. Dù biết từ bi luôn có sẵn trong tâm mỗi người, nhất là những ai đã hướng đến con đường Thánh vị nhưng khi bắt đầu hành trì, áp dụng trong cuộc sống đòi hỏi nhiều thử thách. Chúng ta trên cuộc này đều có biệt nghiệp riêng, người hành trì và những người được hướng đến đều bị chi phối ít nhiều, để khiến họ thay đổi hành động của họ là điều không hề đơn giản khi họ chưa thực muốn đổi. Tâm từ bi của người hành trì có thể đạt đến mức độ nào đó nhưng không thể sánh như Đức Phật, người đã đạt cảnh giới cao tột. Khi không nhận định điều này, chúng ta dễ nhầm lẫn và dẫn đến rơi vào ảo tưởng. Để đạt được như Đức Phật cần nhiều yếu tố. Điển hình, khi đã có tâm từ nhưng điều quan trọng không thể thiếu đó chính là năng lực duy trì năng lượng từ bi đó không ngằn mé, không điều kiện vụ lợi, vượt không gian, thời gian, không thoái thất tâm ban đầu, điều này không hề đơn giản. Điều cần nhận rõ rằng chính bản thân chúng ta vẫn còn nhiều chướng ngại, niệm chấp thân ta, người thân thuộc, người ghét ta, người ta không thương vẫn luôn hiện hữu trong ý niệm khởi lên. Khi rải tâm từ luôn đòi hỏi phải giữ tâm Bồ đề, hai điều này phải luôn song hành, nếu không sự viêc trở nên vô nghĩa. Điều kiện không thể thiếu khi hành tâm từ đó là tâm bi, tâm hỷ và tâm xả tức là sự kết hợp Tứ vô lượng tâm. Sự kết hợp này mới đem đến kết quả tốt đẹp trong các trường hợp trong cuộc sống khi rải tâm từ. Đức Thế Tôn dạy “Với phương tiện nào chúng ta thỉnh thoảng đạt được và an trú hỷ do viễn ly sanh” [21]. Tâm tùy hỷ, vô cầu, vui với thành công người khác, hoan hỷ chơn chánh, không phải vì tài vật, đau khổ người khác hay tự cao về chiến thắng của mình. Niềm hoan hỷ sâu lắng, tận đáy lòng với thành tựu từ tu tập tâm từ cộng với niệm xả không còn vướng mắc. Khi còn những niệm chúng sanh trong tâm, thật khó thoát khỏi tam độc tham, sân, si chi phối khiến tâm ta không chỉ bị kẹt vào các niệm triền cái như nghi, mạn, kiêu mạn mà còn vướng chấp vào phước thiện đạt được do công phu, tu tập, kết quả đạt được do rải tâm từ. “Hoan hỷ chỉ có đến/ Với người tâm sầu muộn/ Sầu muộn chỉ có đến/ Với người tâm hoan hỷ…” [22]. Hành giả sống với niệm xả, không ôm ấp những hoan hỷ hay sầu muộn, cũng không hoài tưởng quá khứ, mơ tưởng tương lai. Chính tâm xả góp phần thành tựu tâm từ, chánh niệm, tỉnh giác, hiện tại lạc trú. Tứ vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả là những tố chất căn bản tạo nên phẩm hạnh người tu Phật. Kết luận Rải tâm từ cũng là phương pháp tu tập, pháp môn hành trì của người con Phật, đặc biệt là hàng xuất gia. Đức Phật giảng dạy“Vị ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân” [23]. Sau khi giảng về phương pháp tu tâm từ, Đức Phật cũng giảng tương tự như vậy với tâm bi, tâm hỷ, tâm xả. Nhờ bốn tâm này kết hợp với nhau, sự tu tập dễ dàng thăng tiến, Bồ đề tâm ngày càng quảng đại, rộng lớn, muội lược tham, sân, si. Tu tập tâm từ đối với người thân, người ta kính mến, sau đó hành giả thực tập rải tâm này hướng đến những nguời khác, đến chúng sinh, muôn loài. Dựa vào công phu chuyên nhất, huân tập trong từng sát na qua thân, khẩu, ý, từ đó mở rộng từ tâm, yêu thương, không sân hận để chuyển hóa hữu tình có duyên với chúng ta. Năng lực có được nhờ tâm từ rộng lớn có thể chuyển hóa chính người tu tập và cả chúng hữu tình được hướng đến, điều này hoàn toàn tương ứng với thuyết nhân quả nghiệp báo trong Phật giáo. Những nghiệp bất thiện mà chúng ta đã gây ra hay nghiệp bất thiện do mỗi chúng hữu tình đã gây tạo sẽ muội lược dần vì nghiệp báo vốn không phải là định mệnh. Do đó, công đức, phước báu nhờ ban rải tâm từ, mở rộng yêu thương, niệm lành có thể chuyển các nghiệp đã tạo theo hướng tốt hơn. Tâm từ luôn có mặt hiện hữu đối với chư Phật, Bồ-tát và từ bi cũng chính là nguồn cội của các pháp lành cần tu tập đối với tất cả đệ tử Phật dù là xuất gia hay tại gia. Giữ tâm luôn an vui, không cho khởi lên những niệm sân, hành giả rải tâm từ đến người khác ngay cả người ác ý với mình. Khi chính ta có từ bi mới ban rải đến người khác và như vậy họ mới cảm nhân được và chuyển hóa. Chú thích [1] Nārada Mahā Thera – Phạm Kim Khánh dịch, Đức Phật và Phật pháp, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2019, [2] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ II, Kinh Như Thế Nào, Nxb. Tôn giáo, 2013, [3] Thích Thiện Siêu dịch, Kinh Pháp Cú, Nxb. Hồng Đức, 2014, [4] Thích Hạnh Bình, Những vấn đề cốt lõi trong Kinh Tăng Chi, Nxb. Hồng Đức, 2018, [5] Thích Hạnh Bình, Sđd, Nxb. Hồng Đức, 2018, [6] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng Chi Bộ IV, chương 11, phẩm Tùy niệm, Kinh Từ, VNCPHVN ấn hành, 1997, [7] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng Chi, chương 3, phẩm Người, Nxb. Hồng Đức, 2021, [8] Thích Hạnh Bình, Những vấn đề cốt lõi trong Kinh Trung A hàm, Nxb. Hồng Đức, 2018, [9] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ I, Kinh Vương Tử Abhaya, Nxb. Tôn giáo, 2012, [10] Bhik. Samàdhipunno Định Phúc biên soạn, Cuộc đời và những lời dạy của Đức Phật, tập 2, Nxb. Hồng Đức, 2017, [11] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tiểu Bộ, tập IV, Nxb. Tôn giáo, 1999, [12] Suttantapitake Khuddakanikāye, Buddhavamsapāli & Cariyāpitaka Pāli, Tạng Kinh – Tiểu Bô, Phật Sử và Hạnh Tạng, Venerable Kirama Wimalajothi, Giám Đốc Buddhist Cultural Centre, Nedimala, Dehiwala, SriLanka, tháng Nikini 2550 – 2006, [13] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng Chi Bộ, Nxb. Hồng Đức, 2020, [14] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng Chi Bộ IV, chương 11, phẩm Tùy niệm, Kinh Từ, VNCPHVN ấn hành, 1997, [15] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ I, Đại Kinh Xóm Ngựa, Nxb. Tôn giáo, 2012, [16] Thích Hạnh Bình, Những vấn đề cốt lõi trong Kinh Trung Bộ, Nxb. Hồng Đức, 2018, [17] Thích Hạnh Bình, Những vấn đề cốt lõi trong kinh Trung A-hàm, Nxb. Hồng Đức, 2018, [18] Thích Hạnh Bình, Những vấn đề cốt lõi trong Kinh Trường A-hàm, Nxb. Hồng Đức, 2018, [19] Thích Hạnh Bình, Những vấn đề cốt lõi trong kinh Trường A hàm, Nxb. Hồng Đức, 2018, [20] Thích Hạnh Bình, Những vấn đề cốt lõi trong kinh Trung A hàm, Nxb. Hồng Đức, 2018, [21] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng Chi Bộ II, chương 5, VNCPHVN ấn hành, 1996, [22] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tương Ưng Bộ I, chương 2, VNCPHVN ấn hành, 1993, [23] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ I, Kinh Ví Dụ Tấm Vải, Nxb. Tôn giáo, 2018,

kinh rải tâm từ tiếng việt